Bài viết hôm nay sẽ chia sẻ khái quát về dàn bài và phân tích bài thơ Vội Vàng Xuân Diệu để học sinh có tài liệu tham khảo tốt nhất khi nghiên cứu, ôn tập tác phẩm này. Ngoài ra, nếu các bạn muốn học tốt và có phương pháp học môn Văn thì có thể tìm gia sư môn Văn tại nhà để giúp đỡ.
Mục Lục Bài Viết
Dàn ý bài thơ Vội Vàng Xuân Diệu
Mở bài
– Giới thiệu về tác giả Xuân Diệu và đặc điểm thơ Xuân Diệu
– Giới thiệu sơ lược về bài thơ Vội vàng.
Thân bài
a, Bốn câu thơ đầu
Thể hiện mong muốn tưởng chừng như vô lý và ảo tưởng của Xuân Diệu. Nhưng cuối cùng vẫn là khao khát giữ lại hương vị cuộc sống
Nghệ thuật: điệp âm, thể thơ năm chữ, tạo nhịp điệu nhanh, dồn dập
b, Chín câu thơ sau đây
– Bảy câu thơ đầu: hình ảnh thiên nhiên – “thiên đường nơi hạ giới”
+ Hình ảnh thơ vui tươi, trẻ trung, có đôi lứa đôi, dường như tràn ngập “ong bướm”, “hoa đồng xanh”, “tổ yến, bản tình ca”, từ “lông mi nhấp nháy”
+ Biện pháp tu từ: so sánh, nhân cách hoá, ám chỉ
Một hình ảnh thiên nhiên tràn ngập ánh sáng mới mẻ, trong trẻo, tràn đầy âm thanh sống động, đầy màu sắc, thơm ngát và tràn đầy yêu thương. Dường như trong bức tranh này vạn vật đều tràn đầy sức sống và say sưa trong cơn say của tình yêu, tình yêu.
– Hai câu còn lại: niềm vui, hân hoan, vội vàng hưởng thụ “thiên đường trần gian” của cái tôi trữ tình.
Mười sáu câu tiếp theo
– Quan niệm mới về thời gian, về tuổi trẻ:
+ Từ “ý nghĩa”
+ Quan niệm về thời gian và tuổi trẻ: thời gian và tuổi trẻ của mỗi người là một khoảng thời gian hữu hạn và hẹp hòi, nó sẽ trôi qua theo một nhịp tuyến tính và không bao giờ quay trở lại.
– Tâm trạng tiếc nuối, tiếc nuối trước sự trôi qua của thời gian, của tuổi trẻ
+ Lời nhắn: giá cả phải chăng
+ Sử dụng hình ảnh thơ tương phản: “Trái tim tôi rộng” – “Bầu trời chật hẹp”, “Tuổi xuân” – “Tuổi trẻ không còn phai nhạt”, “Trời đất” – “Không còn tôi”
d. Mười câu còn lại
– Sử dụng chuỗi động từ mạnh theo cấp độ tăng dần: “ôm” – “crush” – “say” – “nước mắt” – “cắn”
Miêu tả đầy đủ và sâu sắc mong muốn được sống vội vã, sống sôi động và luôn trân trọng thời gian, tuổi trẻ của tác giả. Và cuối cùng, niềm khao khát này là biểu hiện của một cái tôi khao khát được sống, khao khát tận hưởng vẻ đẹp giữa lòng thế giới.
Kết thúc bài thơ vội vàng
Tóm tắt nội dung, giá trị nghệ thuật của bài thơ: Bài thơ có một hình thức nghệ thuật rất điêu luyện: sự kết hợp hài hòa giữa mạch trữ tình và triết học, vận dụng thành công các phương pháp tâm linh. Lời nói khơi dậy thôi thúc sống mãnh liệt, say mê và luôn trân trọng từng khoảnh khắc của cuộc đời.
Phân tích bài thơ vội vàng Xuân Diệu
Mở bài
Xuân Diệu là nhà thơ lớn, cây cổ thụ của văn học Việt Nam hiện đại. Ông là nhà thơ của mùa xuân, của tình yêu với giọng hát sôi nổi, nồng nàn, yêu đời say đắm và luôn khao khát yêu thương, cảm thông. Và có thể nói, “Nhanh lên” được in trong tập Thơ Thơ là một trong những bài thơ nổi bật nhất, tiêu biểu nhất cho phong cách thơ Xuân Diệu trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Thân bài
Mở đầu bài thơ, tác giả Xuân Diệu bày tỏ một khát vọng sống lạ lùng, thậm chí hoan hỷ:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Chắc hẳn khi đọc những câu thơ này, mỗi chúng ta sẽ không khỏi ngạc nhiên trước sự khao khát, khao khát của Huyền Thần. Bởi vì. Tắt nắng và ép gió là điều không thể, bởi nắng và gió là những thứ tự nhiên, nằm ngoài tầm kiểm soát của con người, đó là việc làm tưởng chừng như vô ích và phi lý. Nhưng đối với Xuân Diệu thì điều đó chẳng có nghĩa lý gì, ông còn nhấn mạnh lại mong muốn này bởi với ông, “dập tắt nắng”, “ép gió” là giữ lại hương vị cuộc sống trần thế, “sắc màu không đổi”. . không phai”, “hương không bay mất”. Như vậy, bốn khổ thơ mở đầu bài thơ thể hiện niềm khao khát cháy bỏng, luôn hiện hữu trong lòng nhà thơ.
Và rồi, ở chín dòng tiếp theo, nhà thơ đã miêu tả hình ảnh thiên nhiên – “thiên đường trần gian” như một phương tiện giải thích khát vọng “dập tắt mặt trời”, “ép gió” của mình .
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Dường như chỉ trong sáu dòng, tác giả đã vẽ nên một thiên đường trên mặt đất. Với việc sử dụng loạt hình ảnh đầy ắp các bạn trẻ, các cặp đôi, dường như tràn ngập “ong bướm”, “hoa đồng xanh”, “tổ én với bản tình ca”, “ánh sáng nhấp nháy”. lông mi” với hàng loạt lối hùng biện nhân hóa, gợi ý “đây là đây” và đặc biệt là lối so sánh độc đáo, táo bạo của Xuân Thần “Tháng giêng ngon như đôi môi khép kín” của tác giả. đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đầy mới lạ , ánh sáng thuần khiết, tràn ngập âm thanh sống động, đầy màu sắc, thơm ngát và tràn đầy tình yêu. Dường như trong bức tranh này vạn vật đều tràn đầy sức sống và choáng váng trong cơn say của tình yêu, tình yêu Và dường như cái tôi của Huyền Thần không thể kìm nén được niềm vui của mình, vui mừng và vội vàng muốn tận hưởng mọi thứ, nhưng phải nói:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Nếu như ở mười ba câu thơ đầu tác giả Xuân Diệu bày tỏ tình yêu nồng nàn, nồng nàn đối với thiên nhiên và cuộc sống thì ở mười sáu câu tiếp theo tác giả bày tỏ sự trăn trở, day dứt trước sự hữu hạn của kiếp người và trước dòng thời gian không quay trở lại.
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Có thể nói, trong mười sáu câu thơ tác giả đã vận dụng rất nhiều biện pháp tu từ ám chỉ. Đó là việc ám chỉ “ý nghĩa” của điều đó trong một kiểu câu giải thích để đào sâu sự giải thích, giải thích và khám phá chân lý chiêm niệm khẳng định về tuổi trẻ, về thời gian. Với Huyền Thần, thời gian và tuổi trẻ của mỗi người là một khoảng thời gian hữu hạn và hạn hẹp, nó sẽ trôi qua theo một nhịp tuyến tính và không bao giờ quay trở lại. Đây là một quan niệm rất mới của Xuân Diệu. Ngoài ra, việc sử dụng cụm từ “giá cả phải chăng” và sử dụng hình ảnh trái ngược “trái tim tôi rộng lớn” – “bầu trời chật hẹp”, “chu kỳ xuân” – “tuổi trẻ không bao giờ trở lại hai lần”, trời đất” – “ Tôi không còn ở đó nữa” bày tỏ sâu sắc cảm giác tiếc nuối, tiếc nuối trước sự trôi qua của thời gian và tuổi trẻ.
Thiên nhiên trên trái đất thật đẹp và thật đáng yêu nhưng tuổi trẻ của con người lại có hạn. Một khi đã đi rồi, người ta phải sống vội vàng để tận hưởng hết những vẻ đẹp này. Như vậy, mười dòng kết thúc bài thơ là khát vọng sống cấp thiết.
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Với việc sử dụng ẩn dụ “Tôi muốn” trong chuỗi câu thơ, cũng như việc sử dụng các động từ mạnh ở mức độ tăng dần “ôm” – “tung” – “say” – “tao” – “cắn” đã diễn tả một cách đầy đủ và sâu sắc. sự thôi thúc của tác giả là sống vội vã, sống sôi nổi và luôn trân trọng thời gian và tuổi trẻ của tác giả. Và cuối cùng, niềm khao khát này là biểu hiện của một cái tôi khao khát được sống, khao khát tận hưởng vẻ đẹp giữa lòng thế giới.
Kết bài
Tóm lại, bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu thể hiện một quan niệm rất mới mẻ và độc đáo về tuổi trẻ xét về mặt thời gian. Bài thơ với một hình thức nghệ thuật rất điêu luyện: sự kết hợp hài hòa giữa mạch trữ tình và triết lý, cũng như vận dụng thành công biện pháp tu từ đã khơi dậy khát vọng sống mãnh liệt, say mê, say mê. Hãy luôn trân trọng từng khoảnh khắc trong cuộc sống của bạn.