Fixi.vn – Các nhà toán học , những người ăn ngủ và là bạn đời của những con số. Họ nghiên cứu những gì? Bạn có yêu thích tính mạch lạc của các con số, và tò mò xem chúng sẽ biến đổi ra sao dưới bàn tay mình?
Mục Lục Bài Viết
Nhà toán học là ai?
Toán học là một trong những ngành khoa học cơ bản cổ xưa nhất của nhân loại.
Nhà toán học là người có tri thức rộng về toán học và sử dụng chúng trong công việc của mình, điển hình là giải quyết các vấn đề toán học. Đối tượng mà toán học quan tâm là số, dữ liệu, tập hợp, lượng, cấu trúc, không gian, mô hình và sự thay đổi. Ngày nay, với sự phát triển của nhân loại, toán học chia ra làm hai nhánh chính là Toán học lý thuyết và Toán học ứng dụng.
Nhà toán học lý thuyết là những người tập trung nghiên cứu, thúc đẩy sự tiến bộ của những lý thuyết, kiến thức toán học. Chẳng hạn, họ phát triển những học thuyết, nguyên tắc hay công thức toán học mới.
Nhà toán học ứng dụnglà những người tham gia giải quyết những vấn đề toán học nằm ngoài phạm vi toán học thuần túy. Cụ thể, họ tập trung vào việc lập, nghiên cứu và sử dụng các mô hình toán học trong khoa học, kỹ thuật và kinh doanh.
Nhà toán học làm gì ?
Công việc chính của nhà toán học:
Toán học được chia làm hai lĩnh vực chính: toán học lý thuyết và toán học ứng dụng. Tuy nhiên, không có ranh giới phân biệt tuyệt đối giữa hai lĩnh vực này.
Nhà toán học lý thuyết nghiên cứu các học thuyết mới mà không cần xem xét về tính ứng dụng của nó, chỉ đơn thuần là nghiên cứu tri thức thuần túy. Khi bạn làm việc như một nhà toán học lý thuyết, bạn có cơ hội để khảo nghiệm các lý thuyết cũ, và khám phá ra những chân lý mới về các con số và cách chúng liên quan với nhau. Nhà toán học lý thuyết thường giảng dạy ở các trường đại học. Họ làm những việc giống như các giáo sư, giảng viên khác như cho bài tập về nhà, chấm điểm các bài kiểm tra, viết các bài giảng, và giúp sinh viên giải quyết những khái niệm toán khó. Trong khoảng thời gian trống còn lại, bạn có thể tự do làm nghiên cứu độc lập.
Nhà toán học ứng dụng sử dụng những học thuyết và kỹ thuật tính toán (các mô hình toán học, phương pháp tính toán, v.v) để phân tích và giải quyết những vấn đề thực tế phát sinh trong các lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật và thương mại. Ví dụ, họ có thể phân tích để lên kế hoạch các tuyến đường bay giữa các thành phố, giúp các kỹ sư tính toán bao nhiêu nước sẽ chảy xung quanh một con tàu mà các kỹ sư thiết kế. Hoặc họ có thể giúp các bác sĩ tính toán mức độ một bệnh cúm sẽ lan rộng và có bao nhiêu người sẽ bị bệnh.
Mọi tổ chức và doanh nghiệp lớn đều cần những người có trình độ về toán ở mức sau đại học để tham vấn về các vấn đề kỹ thuật, tài chính và chiến lược cho tổ chức, doanh nghiệp đó. Đấy là hướng đi của thế giới trong thế kỷ 21”.
Nhà toán học làm việc ở đâu ?
Các nhà toán học thường làm việc trong văn phòng, cuộc sống gắn với các con số và thuật toán phức tạp. Nhà toán học lý thuyết làm việc trong các viện toán, trường đại học, cao đẳng, v.v. Họ vừa nghiên cứu vừa giảng dạy. Trên thực tế, hai công việc này hỗ trợ cho nhau rất nhiều.
Do đặc trưng công việc, nhà toán học ứng dụng thường làm việc trong một nhóm các chuyên gia như các nhà kinh tế, nhà địa chất học, nhà vật lý học, kỹ sư, làm việc cho một dự án hay chương trình phát triển hoặc làm việc tại các viện nghiên cứu, các cơ quan quản lý, các cơ sở sản xuất và kinh doanh có sử dụng kiến thức Toán ứng dụng và Tin học, các công ty lập trình, gia công phần mềm, hay phân tích thiết kế hệ thống.
Về môi trường làm việc, các nhà toán học thường có phòng làm việc khá tiện nghi và thoải mái. Nhiều nhà toán học ứng dụng làm việc trong các nhóm nghiên cứu, trong đó có những người là chuyên gia các lĩnh vực khác. Các nhà toán học làm việc trong academia (đại học và viện nghiên cứu) thường có trách nhiệm giảng dạy đi kèm với trách nhiệm nghiên cứu, và có thể có các trợ lý là nghiên cứu sinh và thực tập sinh. Đi công tác xa khá thường xuyên (dự hội nghị, hội thảo, hợp tác khoa học, v.v) là một đặc điểm hay thấy ở các nhà toán học.
Làm thế nào để trở thành nhà toán học?
Ngành toán học được đào tạo tại nhiều viện, trường đại học, cao đẳng trong cả nước. Trong đó có thể kể đến viện Toán học Việt Nam và những trường đại học uy tín như:
- Tại miền Bắc: Đại học Khoa học tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội), Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội;
- Tại miền Nam: Đại học Khoa học tự nhiên (Đại học Quốc gia Tp.Hồ Chí Minh), Đại học Bách khoa Tp.Hồ Chí Minh, Đại học Sư phạm Tp.Hồ Chí Minh, Đại học Đà Lạt, Đại học Quy Nhơn.
Kỹ năng/kiến thức
- Toán học: kiến thức về số học, đại số, hình học, giải tích, thống kê, v.v, và ứng dụng;
- Kiến thức về máy tính và điện tử; kiến thức về khoa học kĩ thuật và công nghệ;
- Tư duy phê phán: sử dụng logic và lý luận để nhận ra điểm mạnh và yếu của những giải pháp thay thế.
Vừa qua, giới toán học lý thuyết trên thế giới truyền miệng nhau về chuyện một nhà toán học nổi tiếng đi … làm phim. Ông là ai?
Từ giáo sư toán học xuất sắc nghiên cứu Chương trình Langlands
Sinh vào tháng 5 năm 1968 tại Nga trong một gia đình gốc Do Thái, nhận bằng tiến sĩ tại Harvard năm 1991, Edward trở thành phó giáo sư tại trường này, sau đó, từ năm 1997 đến nay, ông là GS của khoa Toán đại học Berkeley. Ngoài ra, ông còn là biên tập của các tạp chí toán uy tín nhất như: Inventiones mathematicae, Bullentin of AMS, Letters in Mathematical Physics, v.v. Ông được nhận giải thưởng danh tiếng Hermann Weyl năm 2002.
Năm vừa rồi, GS Frenkel cùng GS Langlands và GS Ngô Bảo Châu đã công bố công trình mới: Formule des traces et fonctorilaité : le début d’un programme (tạm dịch là: Công thức vết và hàm tử: sự bắt đầu của một chương trình).
Đến diễn viên kiêm đạo diễn
Một chuyện hài hước khiến nhiều đồng nghiệp khá bất ngờ, đó là GS Frenkel đi…làm phim.
Năm ngoái, Frenkel đã cùng sản xuất và đạo diễn với Rein Graves đồng thời đóng luôn vai chính trong một bộ phim ngắn 26 phút, có tên là Rites of Love and Math (Nghi thức của tình yêu và toán học).
Tờ Le Monde nói về phim này như sau: “…một bộ phim ngắn tuyệt vời … bộ phim cho thấy một cái nhìn lãng mạn khác thường của nhà toán học”.
Còn tờ Examiner San Francisco mô tả bộ phim là một “sự kết hợp các màu đỏ, trắng và đen thuần túy, sự giản đơn, cảnh quay, âm nhạc,… tất cả chúng đều mượn sự logic đến sự đối xứng và ẩn dụ của toán học trong khi cố gắng vượt qua các rào cản của điện ảnh thông thường với nét quyến rũ mê hoặc…”
Về việc một nhà toán học “kiêm” luôn những ngành nghề khác trong lịch sử toán học cũng không quá lạ. Chẳng hạn Leibniz – tác giả phép tính vi tích phân cùng với Newton – vốn là một luật gia, hay Fermat cũng là một luật sư. Chỉ có điều trong thời đại chuyên môn hóa như ngày nay thì trường hợp Frenkel đúng là đặc biệt, một lĩnh vực quá thuần túy lý thuyết như chương trình Langlands lại có thể có một … đạo diễn phim. Không rõ sắp tới, ông có “trình làng” bộ phim nào nữa hay không?
Từ “mathematics” trong tiếng Anh bắt nguồn từ μάθημα (máthēma) trong tiếng Hy Lạp cổ, có nghĩa là “thứ học được”,”những gì người ta cần biết,” và như vậy cũng có nghĩa là “học” và “khoa học”; còn trong tiếng Hy Lạp hiện đại thì nó chỉ có nghĩa là “bài học.” Từ máthēma bắt nguồn từ μανθάνω (manthano), từ tương đương trong tiếng Hy Lạp hiện đại là μαθαίνω (mathaino), cả hai đều có nghĩa là “học.” Trong tiếng Việt, “toán” có nghĩa là tính; “toán học” là môn học về toán số. Trong các ngôn ngữ sử dụng từ vựng gốc Hán khác, môn học này lại được gọi là số học.
Sự tiến hóa của toán học có thể nhận thấy qua một loạt gia tăng không ngừng những phép trừu tượng, hay qua sự mở rộng của nội dung ngành học. Phép trừu tượng đầu tiên, mà nhiều loài động vật có được, có lẽ là về các con số, với nhận thức rằng, chẳng hạn, một nhóm hai quả táo và một nhóm hai quả cam có cái gì đó chung, ở đây là số lượng quả trong mỗi nhóm.
Những dấu tích về Toán học trong bức tranh của người ai Cập cổ đại
Các bằng chứng khảo cổ học cho thấy, ngoài việc biết đếm những vật thể vật lý, con người thời tiền sử có thể cũng đã biết đếm những đại lượng trừu tượng như thời gian – ngày, mùa, và năm.
Đến khoảng năm 3000 trước Tây lịch thì toán học phức tạp hơn mới xuất hiện, khi người Babylon và người Ai Cập bắt đầu sử dụng số học, đại số, và hình học trong việc tính thuế và những tính toán tài chính khác, trong xây dựng, và trong quan sát thiên văn. Toán học được sử dụng sớm nhất trong thương mại, đo đạc đất đai, hội họa, dệt, và trong việc ghi nhớ thời gian.
Các phép tính số học căn bản trong toán học Babylon (cộng, trừ, nhân, và chia) xuất hiện đầu tiên trong các tài liệu khảo cổ. Giữa năm 600 đến 300 trước Tây lịch, người Hy Lạp cổ đã bắt đầu nghiên cứu một cách có hệ thống về toán học như một ngành học riêng, hình thành nên toán học Hy Lạp. Kể từ đó toán học đã phát triển vượt bậc; sự tương tác giữa toán học và khoa học đã đem lại nhiều thành quả và lợi ích cho cả hai. Ngày nay, những phát minh toán học mới vẫn tiếp tục xuất hiện.
Nguồn:
http://huongnghiepvietnam.vn/vn/chon-nghe/nganh-khoa-hoc-tu-nhien/nha-toan-hoc/140/1
http://www.careersportal.ie/careers/detail.php?ed_sub_cat_id=119&parent;=28&job;_id=288#.VYjVkRb0H2s
http://www.vietnamcentrepoint.edu.vn/bantin/?act=n&t;=4418
http://www.studentscholarships.org/salary/484/mathematicians.php
https://vi.wikipedia.org/wiki/To%C3%A1n_h%E1%BB%8Dc
http://www.insidejobs.com/careers/theoretical-mathematician